Gần đây 2 hãng Sysmex và Abbott (Cell Dyn sapphire) công bố 1 chỉ số mới "lạ hoắc" trên máy phân tích tế bào máu của họ, vượt xa những kiến thức trong dòng phát triển tiểu cầu, được viết trong các sách huyết học. Đó là chỉ số "TIỂU CẦU LƯỚI". Vậy chỉ số tiểu cầu lưới là gì? Tại sao phải sử dụng nó, nó có ý nghĩa như thế nào trên lâm sàng?
Năm 1969, hai nhà khoa học Ingram và Coopersmith sau khi nghiên cứu tình trạng mất máu cấp ở chó Beagle, đã thấy rằng các tiểu cầu mới giải phóng ra máu ngoại vi có chứa các đám nhỏ, sợi lưới, có thể thấy được sau khi nhuộm xanh methylene và quan sát dưới kính hiển vi [1]. Những tiểu cầu này có kích thước lớn hơn và hoạt động mạnh hơn tiểu cầu trưởng thành. Các tiểu cầu này chứa các sợi RNA tương tự như với các hồng cầu lưới (red cell reticulocytes), nên đặt tên cho các tiểu cầu mới sinh ra này là tiểu cầu lưới (reticulated platelets).
Để xác định RNA trong tiểu cầu lưới, ngoài nhuộm với xanh methylne, người ta cũng có thể xác định dựa vào công nghệ dòng chảy tế bào có nhuộm huỳnh quang các RNA, các tiểu cầu lưới được phân biệt rõ ràng với các tiểu cầu trưởng thành (không bắt màu thuốc nhuộm). Năm 1990, Kienast và Schmitz khi nghiên cứu về bệnh lý rối loạn giảm tiểu cầu đã áp dụng công nghệ dòng chảy tế bào nhuộm các tiểu cầu bằng thiazole orange [2]. Năm 1996, Chavda và cộng sự cải tiến phương pháp thành công nghệ dòng chảy tế bào nhuộm màu kép (dual colour flow cytometry), bên cạnh vẫn sử dụng thiazole orange để nhuộm tiểu cầu, còn sử dụng một kháng thể kháng glycoprotein 1b (Anti-GP1b) hay CD42 kết hợp trực tiếp với phycoerythrin, phương pháp này cho phép phân tích đơn giản, nhanh chóng các tiểu cầu lưới có trong máu toàn phần [3].
Có rất nghiều nghiên cứu về ý nghĩa tiểu cầu lưới trên lâm sàng đã được công bố, như các nghiên cứu của Ault và cộng sự (1992) [4], Rinder và cộng sự (1993) [5], Richards & Baglin (1995) [6], O’Malley và cộng sự (1996) [7], đã chỉ ra rằng, trong các bệnh lý giảm tiểu cầu có mối tương quan trực tiếp giữa lượng tiểu cầu lưới và hoạt động của các nguyên mẫu tiểu cầu trong tủy xương (megakaryocytes). Bệnh nhân có nguyên mẫu tiểu cầu trong tủy xương hoạt động thấp thì không có sự gia tăng tiểu cầu lưới ở máu ngoại vi, ngược lại, những người có tăng hoạt động của nguyên mẫu tiểu cầu trong tủy xương có sự tăng đáng kể các tiểu cầu lưới ở máu ngoại vi. Qua đó, việc xác định tiểu cầu lưới cho phép xác định việc giảm tiểu cầu ở bệnh nhân là do giảm sinh của tủy xương hay do tăng phá hủy ở ngoại vi, từ đó tránh được việc xâm lấn chọc hút tủy xương để xác định.
Lê Văn Công
Tài liệu tham khảo: [1] https://onlinelibrary.wiley.com/…/j.1365-2141.1969.tb01366.x [2] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1688494?dopt=Abstract [3] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/21043687?dopt=Abstract [4] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1281383?dopt=Abstract [5] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8503732?dopt=Abstract [6] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8547092?dopt=Abstract [7] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8896392?dopt=Abstract https://onlinelibrary.wiley.com/…/…/j.1365-2141.2004.04987.x
👉👉 Để xem được các video và bài viết mới nhất của chúng tôi, hãy đăng ký kênh theo địa chỉ: https://user35495.pics.ee/A7D2A ------------------------------------------------------------------------------------------ 🎬 Youtube: https://www.youtube.com/labnotes123/?sub_confirmation=1
📡Địa chỉ webbsite: https://labnotes123.wixsite.com/medical
🖱Địa chỉ fanpage: https://www.facebook.com/Labnotes123/
📕Hiệu sách: https://www.facebook.com/Labnotes123/shop/